• Aucun résultat trouvé

CHAPITRE 2. LE ĐINH DANS LE VIEUX QUARTIER DE HANOI

2.3. Le Đình dans le vieux quartier

2.3.1. La distribution des Đìnhdans le vieux quartier

Malgré la distribution des sites architecturaux quasi régulière dans les dix quartiers du vieux quartier, il existe une distinction entre la concentration et les nuances clairsemées ou denses. Les quartiers qui ont les sites les plus nombreux sont les quartiers de Hàng Đào, de Hàng Buồm, de Hàng Bạc et de Đồng Xuân. Ils ont un point commundans leur localisation à l’Est du vieux quartier, le terrain considéré “vieux” afin de lesdifférencier avec les nouvelles zones à l’Ouest découvertes depuis le XIXème siècle sous la Dynastie de Nguyễn qui est entré dans la citadelle en la démolissant et en réduisant la superficie du canton de Hanoi.

L’architecture du Đình se voit dans les rues Hàng Buồm, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bè, Đồng Xuân, Lãn Ông, Mã Mây, Hàng Cân et Hàng Ngang. Dans chaque rue, les maisons anciennes restent isolées, alternées avec l’architecture du début du siècle ou de nouvelles constructions contemporaines. Il est rare que soient juxtaposées des maisons anciennes l’une à côté de l’autre. Cependant, les statistiques ci-dessus ont relevé que la largeur des façades dans les rues de Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc pourraient témoigner et réveler l’existance d’une série de maisons anciennes

juxtaposées comme dans la description et les images trouvées des anciens documents de la fin du XIXème siècle.

Un grand nombre de Đình occupent 50% du total des sites religieux de cultes dans le territoire étudié. Ce pourcentage reflète un trait important. Étant le lieu d’activités communes, le Đình est relié évidemment à une communauté, un rassemblement populaire particulier. Sur le plan de la distribution des sites, bien qu’elles soient disséminées dans tous les quartiers, les Đình se retrouvent surtout à l’Est et au Sud-Est du vieux quartier, sur l’axe de Hàng Ngang- Hàng Đường- Hàng Đào et au sud (Plan No9). Au contraire, il

n’est pas rare de trouver des Đình dans une même rue à Hanoi.

A propos du nombre et de la distribution des Đình, les statistiques du Bureau de Gestion des Sites et des Beaux Paysages de Hanoi ont montré que le vieux quartier de Hanoiest composé de 52 Đình répartis régulièrement dans les 37 rues dont les plus nombreuxsont dans la rue Hàng Bạc (4), rue Hàng Bông (5), rue Hàng Quạt (3), rue Hàng Đào (2). Ilssont respectivement deux dans quatre rues, et seul dans les vingt-neuf rues restantes. (Tableau 2.2)

Tableau 2.2- La distribution des Đìnhdans le vieux quartier

No Nom de la maison communale Adresse Génies à dédier Rue Quartier

1 Yên Nội 33 Hà Trung Porte de l’Est

Génie titulaire du village et Từ Đạo Hạnh

2 Vũ Du 42 Hàng Da Porte de

l’Est Lê Công Hành 3 Hàng Giấy (đình

Đồng Xuân) 83 Hàng Giấy Đồng Xuân Bạch Mã (cheval blanc) 4 Nghĩa Lập 32 Hàng Đậu Đồng Xuân Génie de Trần

5 Nguyên Khiết

(Hàng Nâu) 56 Trần Nhật Duật Đồng Xuân Génie titulaire du village 6 Phúc Lâm 2 Gầm Cầu Đồng Xuân Génie Mère

7 Phương Trung 18 Đồng Xuân Đồng Xuân Prince du Palais, Princesse du Marché

8 Thanh Hà 10 Ngõ Gạch Đồng Xuân Trần Lựu 9 Dũng Hãn 45 Hàng Bạc Hàng Bạc Linh Lang

10 Đại Lợi 50 Gia Ngư Hàng Bạc Cao Sơn, Bạch Mã, Linh Lang 11 Kim Ngân 42 Hàng Bạc Hàng Bạc Ancêtre du métier d’argenterie,

Linh Lang

12 Nhiễm Hạ 1 Hàng Bạc Hàng Bạc Génie titulaire du village (culte de loin)

13 Trung Yên 10 Trung Yên Hàng Bạc Un mandarin sous la Dynastie de Mạc

14 Trương Thị 50 Hàng Bạc Hàng Bạc Ancêtre du métier d’argenterie, Linh Lang

15 Đông Thành 7 Hàng Vải Hàng Bồ Huyền Thiên Trấn Võ 16 Lò Rèn 1 Lò Rèn Hàng Bồ Ancêtre du métier de forge 17 Nhân Nội 33 Bát Đàn Hàng Bồ Cheval blanc

18 Tân Khai 44 Hàng Vải Hàng Bồ Thiết Lâm, Bạch Mã (cheval blanc), Tô Lịch

19 Đông Mỹ 127 Hàng Bông Hàng Bông Commandant en chef 20 Kim Hội 95 Hàng Bông Hàng Bông Trần Hưng Đạo

21 Lương Ngọc 65a Hàng Bông Hàng Bông

Génie titulaire du village de Lương Ngọc, district Bình Gia, province de Hưng Yên

22 Đình Thái úy 120 Hàng Bông Hàng Bông Lý Thường Kiệt 23 Đông Thái 6 Đông Thái Hàng Buồm Madame Bạch Anh

24 Hàng Giầy 16 ngõ Hài Tượng Hàng Buồm

Ancêtre du métier de chaussure Phạm Đức Chính, Phạm Sĩ Bảo, Phạm Thuần Chính

25 Hương Bài 90 Trần Nhật Duật Hàng Buồm Nguyễn Trung Ngạn 26 Phất Lộc 46 ngõ Phất Lộc Hàng Buồm Nguyễn Trung Ngạn 27 Phúc Lộc 6 Lương Ngọc

Quyến Hàng Buồm Nguyễn Trung Ngạn 28 Phương Đình 20 Nguyễn Siêu Hàng Buồm Nguyễn Văn Siêu

29 Quan Đế 28 Hàng Buồm Hàng Buồm Génie chinois Quan Công 30 Ưu Nghĩa 2A Nguyễn Hữu

Huân Hàng Buồm Nguyễn Trung Ngạn 31 Tử Dương 8 Hàng Buồm Hàng Buồm Génies protecteurs 32 Diên Hưng 5 Hàng Ngang Hàng Đào inconnu

33 Đông Môn 8 Hàng Cân Hàng Đào Mère de Thoải

34 Đồng Lạc 38 Hàng Đào Hàng Đào Cao Sơn, Bạch Mã (Cheval blanc), Linh Lang

35 Đồng Thuận 27 Hàng Cá Hàng Đào Lý Tiến

36 Đức Môn 38 Hàng Đường Hàng Đào Ngô Văn Long

37 Hàng Đào 47-49 Hàng Đào Hàng Đào Bạch Mã (Cheval blanc) et Triệu Việt Vương

38 Hoa Lộc 90a Hàng Đào Hàng Đào Triệu Quang Phục et Ancêtre de métier de teinturerie

39 Vĩnh Hạnh 19b Hàng Đường Hàng Đào inconnu

40 Cổ Vũ 85 Hàng Gai Hàng Gai Bạch Mã - Linh Lang 41 Đông Hà 46 Hàng Gai Hàng Gai Quý Minh

42 Hàng Thiếc 2 Hàng Nón Hàng Gai Ancêtre de métier d’étain

43 Hàng Quạt 4 Hàng Quạt Hàng Gai

Ancêtre de métier de

l’éventaillerie dont le nom est Đào

44 Hà Vĩ 11A Hàng Hòm Hàng Gai Trần Lư - Ancêtre de métier de peinture

45 Thuận Mỹ 74 Hàng Quạt Hàng Gai Ancêtre de métier de peinture 46 Tú Thị 2A Yên Thái Hàng Gai Lê Công Hành - Ancêtre de

métier de broderie 47 Yên Nội 42-44 Hàng Nón Hàng Gai Mère

48 Yên Thái 8 Tạm Thương Hàng Gai La reine de Ỷ Lan 49 An Phú 7 Hàng Rươi Hàng Mã Inconnu

50 Ngũ Giáp 54 Hàng Cót Hàng Mã Tô Tịch, Long Đỗ, Thiết Lâm 51 Phủ Từ 19 Hàng Lược Hàng Gai Tứ Vị Hồng Nương

52 Trang Lâu 77 Nguyễn Hữu

Huân Lý Thái Tổ

Ancêtre de métier de meuserie et Cao Sơn, Quý Minh

Le vieux quartier attire des artisans des environs du pays pour le travail et pour les affaires commerciales. Ces personnes du même pays natal ont construit unĐìnhpourlieu d’activité communale et de culte. Pour cette raison,l’architecture des Đình est très présente.

Les résultats d’une étude ont montré que le Đình de Thái Úy situant auno120 rue Hàng Bông était celle du hameau Bắc Hạ (Nord en aval). Il a été déplacé sur l’emplacement actuel en raison de la construction de la Cathédrale par les Français. Ce déplacement est noté sur une stèle et mémorisé par les générations suivantes du peuple de la région. C’est certainement le cas duĐình Thái Úy qui a causé la convergence de quelques autres sites dans cette rue.

Les génies dédiés dans unĐình : les 49/52 des Đình sont dédiés aux génies connus.

Ce sont les personnages au temps du Roi de Hùng Vương comme Cao Sơn, Quý Minh, Huyền Thiên qui sont reliés étroitement à l’histoire de Thăng Long: par exemple Tô Lịch, Long Đỗ, Bạch Mã, Linh Lang; ils sont aussi des personnages ayant des mérites pour le pays et la citadelle de Thăng Long - Hà Nội comme Trần Lựu, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Văn Siêu. On ydeifie également les ancêtres des métiers artisanaux comme: la bijouterie, la forge, la papeterie, le métier d’étain, l’éventaillerie, la broderie, la peinture et la menuserie. Il y est apparu aussi des génies étrangers comme: Quan công, les quatre Saintes (Tứ vị Hồng nương). Non seulement les génies y sont dédiés mais aussi les saintes comme la Reine Ỷ Lan, St. Dame (Mère), princesse Bạch Hoa (Blanc Fleur), princesse Phương Dung, Dame Bạch Anh.

Il est a noté aussi que l’on vénère égalementlesles génies titulaires du village d’origine: génie titulaire des villages de Lương Ngọc, district Bình Gia (Hưng Yên), du

village de Tử Dương, district Thường Tín (Hà Tây). Pourtant, les habitants pourraient mutualiser le culte de l’ancêtre du métier et celui du génie titulaire du village d’origine.

La structure architecturale des Đình dans le vieux quartier de Hanoi est marquée par la diversité. Trois types de plans sont reconnus, se basant sur le plan architectural: plan à la forme de la lettre công(工)en sino-vietnamien, plan à la forme de la lettre nhị(=) en sino-vietnamienet le plan de type maison-tube.

2.3.2. Le développement chronologique du Đình dans le vieux quartier

Entre le IIIème et le IVème siècles, la zone intra-muros de Hanoi et ses environs était composée des villages ayant appartenant à la tribu de Tây Vu sous le temps du Roi de Hùng Vuong et de Thục qui étaient nommés puis les districts de Tây Vu et Phong Khê

Figure 2.6: Le plan de l’aménagement du vieux quartier de Hanoi en 1948 L.G.Pinau. (Source: Bureau de Gestion du Vieux Quartier de Hanoi)

pendant la période de domination chinoise par Han.Le district de Vũ An était sous la domination chinoise par Ngô (siècle III) et le district de Nam Định elle aussi sous les Tấn (siècle IV). Jusqu’au milieu du Vème siècle, la joue centrale du vieux Hanoi est devenue à l’échelle d’un village, le district de Tống Bình, sous la Dynastie des Liu Tang (454-456) avec Hiếu Vũ Đế (l’Empereur de Xiaowu). Le nom de Tống Bình a connu une période sombre de la domination chinoise. Au VIème siècle, Hanoi est devenu un district de Tống Châu. Le Roi Lý Nam Đế, qui était très intelligent et sage, n’a pas choisi son pays natal de Thái Bình pour construire la citadelle, mais il a créé son pays en 544 à Hanoi en prenant le nom de Vạn Xuân pour assumer les héritages des dynasties successives des Lý, Trần, Lê. Il a également fait édifier la pagode de Khai Quốc (soit la pagode de Trấn Quốc au présent), le palais de Vạn Thọ et construisit un rempart à l’entrée de la rivière de Tô Lich (en 545) pour empêcher l’invasion de l’Empereur de Liang.

Hanoi - Tống Bình était déjà peuplé à cemoment-là, le Giao Châu (soit le Nord au présent) était composéau total de 55 villages tandis que Tống Bìnhen inclut 11. Le nombre de 400 000 maisons à l’intérieur de la citadelle de Đại La donne une idéede la population de Hanoi. Hanoi est devenu “un gouvernement dominé de An Nam” ayant un “rempart” et un “marché”. Il était une cité rare du pays de Viet et de l’Asie du Sud-Est, en tant que lieu “des gens du marché” (Kẻ chợ) des milliers de villageois.

L’examen des reliques dans les sites a montré que les objets datés de la Dynastie des Lê (pendant les siècles XVII et XVIII) sont fouillés seulement à l’Est de l’axe de Đồng Xuân- Hàng Đường- Hàng Ngang- Hàng Đào. Ceci permet d’identifier la position du plan d’aménagement de la ciatdelle de Thăng Long sous les dynasties des Lê et Nguyễn.

Ainsi, le village de Hanoi a grandi graduellement en district, canton, et est devenu capitale du pays en 1010. Au cours du temps, en parallèle avec le “rempart” dans le rôle de centre politique du pays de Đại Việt, s’est développé la partie de “marché” à l’Est qui a été aménagée selon le plan de trois murailles concentriques. Les groupes d’habitants des métiers y convergèrent pour faire du commerce, vivre en important des activités de production artisanale, commerciale et de service. L’architecture typique du vieux quartier de Hanoi a été formée et développée alors en se basant sur l’héritage des éléments culturels traditionnels, en sélectionnant de nouveaux éléments qui s’adaptaient à l’environnement urbain en fonction du temps donné.

De son histoire épaisse de millénaires, l’identification de la date des sites dans cette ville pose toujours des problèmes. Dans ce travail d’étude, on divise en deux types de sites. Les premiers sont des sites architecturaux précisés chronologiquement par les stèles, les documents, les livres personnels concernés. Les seconds sont des sites non documentés pour savoir la date. Ils sont ainsi comparés avec les premiers précisés, en sachant que la chronologie par comparaison est évidemment la référence.

L’identification chronologique des sites architecturaux dans levieux quartier de Hanoi met l’accent sur la date de la construction. Dans le cas où l’on ne connait que la date de la restauration du monument, la plus ancienne date de restauration est considérée

2.3.2.1. Dynastie des Lý

Al’automne de l’année de Canh Tuât (soit l’année du chien, en 1010), le roi Lý Công Uẩn a décidé de déplacer la capitale en changeant le nom de Đại La en Thăng Long. Un petit village au bord de la rivière de Tô est passé, au fil du temps, sous le nom de Vạn Xuân (la Dynastie des Lý antérieure), puis de Tống Bình- Đại La (la domination de la Dynasties de Tuỳ Đường), puis de la citadelle de Thăng Long au début du XIème siècle s’était formée une grande agglomération comme le premier noyau de Hanoi.

Le vieux quartier se trouve à l’Est de la Cité Impériale, exactement entre la cité et la citadelle de Đại La. L’identification de la muraille à l’Est et la Porte de l’Est de la Cité Impériale sert de base pour localiser le vieux quartier dans le tissu urbain de la capitale de Thăng Long sous les dynasties des Lý, Trần, Hồ.

La Porte de l’Est de la Cité Impériale sous les dynasties des Lý, Trần était nommée la Porte de Tường Phù et était ouverte vers Giang Khẩu (soit la porte de la rivière de Tô Lịch) et le temple de Bạch Mã (cheval blanc) situé 76 rue Hàng Buồm, la pagode de Cầu Đông (ou Đông Kiều Tự - Pagode du Pont de l’Est), ou la pagode de Cửa Đông (ou Đông Môn Tự - Pagode de la Porte de l’Est) au 38B rue Hàng Đường, leĐình de Cửa Đông (ou Đông Môn đình) au 8 rue Hàng Cân.

Le temple de Bạch Mã a été édifié pendant le temps de la domination chinoise de Tang et le Việt điện u linh (recueil de nouvelles d'enfers spirituels dans les temps anciens du Vietnam) cité: "à partir de la Dynastie des Lý, la capitale fut à Thăng Long, le roi de Thái Tông a fait élargir le quartier du marché vers la Porte de l’Est où les boutiques et les restaurants se pressèrent à côté du temple, l’atmosphère fut très animée. Mais il a pensé qu’il ne faut pas déplacer un temple ancien qui a été ainsi restauré. Le temple était proche des maisons de rue. Il y a à l’intérieur une chapelle pour vénérer le génie. Auparavant, au marché de Đông, il y a eu trois incendies qui ont causé la ruine de toutes les maisons sauf la chapelle du génie1. Le temple de Bạch Mã dédié au génie de Long Đỗ - le génie tutélaire de la citadelle de Thăng Long –qui est considéré désormais comme un des quatre “génies gardiens” de la citadelle. Le temple est défini, par la Carte de Hồng Đức au XVè siècle, il est localisé au sud de la rivière de Tô Lịch. Il se trouve alors dans le quartier du marché de la Porte de l’Est, près de la porte de la rivière de Tô qui sort du fleuve Nhị (soit l’oreille ou fleuve Rouge) du quartier de Giang Khâu. Aujourd’hui, on conserve encore 15 stèles des dynasties des Lê et Nguyễn.

La pagode de la Cửa Đông (Đông Kiều Tự ou Porte de l’Est) se trouve au numéro 38B rue Hàng Đường. Elle est proche du pont de l’Est-Cầu Đông- qui traverse la rivière de Tô et s’oriente vers la Porte de l’Est.On lui donne un autre nom ; pagode de Cầu Đông ou Đông Môn Tự. La Porte de Tường Phù a été appelé aussi Đông Hoa (Fleur de l’Est) ou Cửa Đông (Porte de l’Est). Sur la stèle de la sixième année de Vĩnh Tô (1624) est écrit “Đông Môn ký tự” (le récit de la Porte de l’Est): “elle est entourée par le fleuve de Nhị, et par la muraille de la citadelle de Thăng Long à l’arrière”2. Il y avait été noté aussi

1 Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, Editions Culture, Hanoi 1960, page 86.

2Collection des plaques de Hanoi, Editions de Sciences sociales, Hanoi, 1978, page 41, la traduction n’est

l’histoire d’offrance d’un lopin de rizière pour étendre la pagode du moine Nguyễn Văn Hiệp et de sa femme dont les noms de baptême sont Đạo Án et Diệu Bi. La figure du terrainest décrite: “il est proche du pont en amont et du quartier de Diên Hưng en aval, près de la route et du service de bagne à l’Est”. Les écritures sur la stèle ont révélé que la pagode donnait sur le fleuve de Nhị, sur la muraille de la citadelle de Thăng Long, très proche du pont en pierre traversant la rivière de Tô Lịch et est appelée Pagode du Pont de l’Est (Cầu Đông). Ainsi, cette pagode se situe près de la Porte de l’Est et du Pont de l’Est. Ce sont des documents importants pour définir la position de la muraille et de la porte de l’est de la ville dans son rapport avec la rivière de Tô et le fleuve de Nhị. Les notes affichées dans la pagode, datées de la huitième année de Cảnh Thịnh (en 1800), ont précisé que la rivière de Tô est à gauche et la Porte de l’Est est à droite, le pont en pierre est à l’Est de la pagode.

Le nom de “Đông Môn đình” (Đình de la Porte de l’Est), au numéro 8 rue Hàng Cân, est parvenu jusqu’à nous, servant d’indice important pour définir la localité de la Porte de l’Est, c’est-à-dire la Porte de Tường Phù sous les dynasties des Lý et Trần. Il a été changé par le nom de Đông Hoa pendant la dynastie des Lê, que les habitants appellent en général Cửa Đông. Jusqu’à maintenant, aucun document historique n’a montré que le Đình du vieux quartier a été construit pendant ce temps.

2.3.2.2. Dynastie des Trần

Le développement de Thang Long a apporté une influence considérable à ses environs. Certains villages voisins ont créé des métiers artisanaux comme le village de poterie de Bat Trang (au district de Gia Lam). Sous la dynastie des Tran (en 1247), la citadelle a attiré un grand nombre de commerçants et d’étrangers qui sont venus pour le commerce. Les trente bateaux chinois ont permis d’ouvrir le marché et de créer la rue du commerce dans le quartier de Mai Tuan. Les commerçants d’Ouïghour, de Nanyang et de Chine y étaient nombreux quiont apporté des opportunités de créer un marché d’échange et de consommation pour les métiers artisanaux.

Ainsi, sous les dynasties de Ly et Trần, malgré sa faible superficie, le vieux quartier est devenu un milieu commercial le plus animé de la Cité Impériale. En 1230, la dynastie de Trân a découpé la citadelle en 61 quartiers mais il est regrettable de ne pas pouvoir trouver cette liste dans les documents historiques. Dans les livres sont notés quelques localités dans le vieux quartier comme: Giang Khâu, Kim Cô (la pagode de Kim Cô au 73 rue Duong Thanh), Khuc Pho, Dong Ha, etc. Ce quartier s’est ouvert vers la Porte de l’Est de la Cité Impériale. L’embouchure de la rivière de Tô Lich (soit Giang Khâu) s’écoulait dans le fleuve Nhi. Il y existait l’embarcadère de Tô (Giang Khâu), le marché de la Porte de l’Est ou du Pont de l’Est avec des rues denses, des maisons et des activités commerciales. Les maisons étaient faites essentiellement en bambou et en bois,